Trận Điện Biên Phủ (tiếng Pháp: Bataille de Diên Biên Phu; phát âm: [bataj də djɛ̃ bjɛ̃ fy]), còn gọi là Chiến dịch Điện Biên Phủ là trận đánh lớn nhất[7] trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên) giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân đội Liên hiệp Pháp (gồm Lực lượng Viễn chinh Pháp, Binh đoàn Lê dương Pháp, quân phụ lực bản xứ và Quân đội Quốc gia Việt Nam).
Biên phiên dịch ngôn ngữ Anh offline tại nhà
Ngày nay, nhiều ứng viên với trình độ ngoại ngữ tốt lựa chọn làm biên dịch viên tại nhà. Công việc này cho phép họ tự do lựa chọn các dự án biên dịch từ nhiều doanh nghiệp, tổ chức khác nhau.
Biên dịch viên tại nhà có thể đảm nhận các dự án dịch thuật từ xa, miễn là họ đảm bảo chất lượng bản dịch và hoàn thành đúng thời hạn. Vị trí này đang thu hút nhiều ứng viên vì tính linh hoạt, đặc biệt là với những người thích làm việc tự do hoặc kết hợp với các công việc khác.
Công việc biên dịch tại nhà không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp trong nước mà còn mở rộng ra các tổ chức phi chính phủ và công ty nước ngoài. Nhờ sự phát triển của công nghệ, họ có thể dễ dàng kết nối và nhận dự án từ các doanh nghiệp ở mọi nơi trên thế giới.
Thu nhập cho biên dịch viên tại nhà khá đa dạng, dao động từ 2,5 triệu đến gần 20 triệu đồng/tháng tùy thuộc vào số lượng dự án và độ phức tạp của công việc.
Xin việc làm biên phiên dịch ngôn ngữ Anh ở đâu?
Ngày nay, nghề biên phiên dịch tiếng Anh tuyển dụng rất nhiều. Để xin việc làm biên phiên dịch ngôn ngữ Anh, bạn có thể bắt đầu bằng việc tìm qua nhiều kênh khác nhau. Các trang web tuyển dụng nổi tiếng như Top CV, VietnamWorks, CareerBuilder hay LinkedIn thường xuyên đăng tin tuyển dụng cho vị trí biên phiên dịch viên. Bạn cũng có thể kiểm tra các trang web chuyên ngành hoặc các diễn đàn nghề nghiệp liên quan đến ngành phiên dịch.
Ngoài ra, các trung tâm dạy ngôn ngữ và công ty dịch thuật cũng là nguồn cung cấp thông tin việc làm quý giá. Hãy liên hệ trực tiếp với các công ty dịch thuật hoặc tham gia vào các mạng lưới nghề nghiệp và sự kiện ngành để mở rộng cơ hội.
Với những chia sẻ ở trên mong rằng sẽ giúp bạn trả lời được biên phiên dịch Tiếng Anh là gì? Nếu bạn đang muốn trở thành biên dịch viên thì bài viết này dành cho bạn.
Biên dịch viên tiếng Anh (Translator) được biết đến là những chuyên gia ngôn ngữ Anh làm việc trong lĩnh vực dịch thuật. Vậy cụ thể biên dịch tiếng Anh là công việc gì, mức lương ra sao và kỹ năng cần có để làm việc trong ngành là gì? Cùng tìm hiểu chi tiết ngay sau đây.
Vị trí biên phiên dịch Tiếng Anh tại nhà
Đối với vị trí biên phiên dịch tại nhà được khá nhiều người quan tâm và muốn ứng tuyển vào vị trí này. Thường thì sẽ thuê dưới dạng cộng tác viên theo dự án nếu cần hoặc dịch thuật tại nhà. Vị trí biên dịch viên Tiếng Anh luôn được nhiều người quan tâm hàng đầu.
Biên dịch viên tiếng Anh làm việc ở đâu?
Với sự phát triển mạnh mẽ của internet, các biên dịch viên tiếng Anh có nhiều cơ hội việc làm hơn bao giờ hết, từ làm việc tại công ty đến biên dịch tại nhà. Điều này mang lại sự linh hoạt và mở rộng phạm vi công việc cho người làm nghề.
Biên phiên dịch tiếng Anh lương bao nhiêu?
Mức lương của nghề biên phiên dịch có thể khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố như kinh nghiệm, trình độ học vấn và địa điểm làm việc.
Trung bình, tại Việt Nam, lương của một biên phiên dịch viên tiếng Anh thường dao động từ 12 triệu đến 20 triệu đồng mỗi tháng. Với các chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm hoặc làm việc trong các công ty lớn, mức lương có thể lên đến 30 triệu đồng hoặc hơn.
Học biên dịch tiếng Anh có khó không?
Học biên dịch tiếng Anh có khó hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm:
Kỹ năng cần thiết để trở thành biên dịch viên tiếng Anh chuyên nghiệp
Kỹ năng cần có của một biên dịch viên tiếng Anh
Để trở thành một biên dịch viên tiếng Anh chuyên nghiệp, bạn cần trang bị đầy đủ các kỹ năng cần thiết, bao gồm:
Trình độ ngoại ngữ xuất sắc là yếu tố quyết định trong việc trở thành biên dịch viên tiếng Anh chuyên nghiệp. Bạn cần thành thạo ít nhất hai ngôn ngữ, trong đó tiếng Anh phải đạt trình độ cao cả về kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Các chứng chỉ như IELTS, TOEFL, CEFR, CAE ở cấp độ Advanced là minh chứng quan trọng. Nếu không học chuyên ngành dịch thuật, bạn cần tích lũy kinh nghiệm dịch từ sớm qua công việc part-time, cộng tác viên hoặc phiên dịch sự kiện nhỏ.
Ngoài khả năng ngôn ngữ, biên dịch viên cần có những kỹ năng khác như giao tiếp, nắm vững ngữ pháp và xử lý tình huống khôn khéo. Trong nghề biên dịch, việc dịch đúng là chưa đủ. Bạn cần có khả năng viết lách và tạo ra các bản dịch tự nhiên, dễ đọc và phù hợp với ngữ cảnh.
Để có thể cạnh tranh, bạn có thể học thêm qua các khóa biên phiên dịch tiếng Anh trực tuyến hoặc tại các trung tâm.
Để dịch văn bản chính xác, biên dịch viên cần hiểu rõ quan điểm của tác giả trong văn bản gốc và truyền tải chúng một cách rõ ràng và trung thực. Tư duy dịch thuật tốt giúp bạn truyền đạt đúng thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm, tránh hiểu sai hoặc xuyên tạc ý nghĩa của nội dung.
Đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực dịch thuật là sự tôn trọng nguyên bản và ý tưởng của tác giả. Biên dịch viên không được phép đưa những bình luận cá nhân hay thay đổi nội dung của văn bản dịch. Sự chuyên nghiệp trong công việc dịch thuật không chỉ đảm bảo bản dịch chính xác mà còn giữ đúng tinh thần của văn bản gốc.
Vị trí biên phiên dịch ngôn ngữ Anh offline tại nhà
Với hình thức này áp dụng cho các dịch vụ dịch video từ xa hoặc dịch vụ chuyển tiếp video (VRS) nhằm phá vỡ rào cản ngôn ngữ nói, nhận dạng các văn hóa thị giác có liên quan.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, điểm phát triển đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng chiến thuật là xác định đúng thời cơ đánh đòn quyết định cuối cùng. Ta đã thành công với cách đánh "vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt", một hình thức chiến thuật tiến công quân địch phòng ngự trong công sự kiên cố làm cho địch suy yếu dần, tiến tới tiêu diệt toàn bộ chúng.
Để thực hiện phương châm "đánh chắc, tiến chắc" hiệu quả nhất, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội ta lựa chọn và thực hiện cách đánh chiến dịch sáng tạo và hợp lý với tên gọi ban đầu là chiến thuật "vây - lấn". Với chiến thuật độc đáo này, bộ đội ta đã không tập trung lực lượng đánh thọc sâu, không chấp nhận một cuộc tổng giao chiến "đánh nhanh, giải quyết nhanh" dự kiến kéo dài trong 2 ngày 3 đêm với hơn 16 nghìn quân tinh nhuệ và thiện chiến của Pháp án ngữ trong một tập đoàn cứ điểm mạnh được cho là "bất khả xâm phạm". Ta đã kịp thời kéo pháo ra, tổ chức lại trận địa, tiến hành vây hãm dài ngày; triệt phá đường tiếp tế, tập trung binh hỏa lực tiêu diệt từng mục tiêu một, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm.
Đại tá Trần Ngọc Long, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự phân tích: "Với nghệ thuật "vây - lấn" bao quanh từng căn cứ một và bao quanh toàn bộ tập đoàn cứ điểm, trong lòng chảo Điện Biên Phủ có rất nhiều điểm cao, thì 49 cứ điểm đấy đều được án ngữ trên những điểm cao lợi hại nhất. Cho nên, bằng chiến thuật "vây - lấn" chúng ta tấn công những đỉnh cao, thắt chặt vòng vây. Bằng hệ thống giao thông hào mạng nhện, chúng ta không chỉ cô lập từng cứ điểm; cô lập từng cụm cứ điểm; mà còn làm đường để cho bộ đội tiếp cận mục tiêu".
Dựa vào hệ thống giao thông hào được đào bao quanh cứ điểm địch, bộ đội ta cứ lấn và tiến dần, sử dụng hỏa lực tiêu diệt từng lô cốt, ụ súng; lần lượt phá từng bãi mìn, từng hàng rào kẽm gai,... tiếp cận tới từng chân cứ điểm, cụm cứ điểm, rồi bất ngờ đồng loạt xung phong tiến công vào trung tâm của địch. Cách đánh này vừa hạn chế được tổn thất cho bộ đội trước sức mạnh và lưới lửa dày đặc của hệ thống hỏa lực địch; đồng thời làm cho quân địch luôn ở trong trạng thái hoang mang, căng thẳng, lo sợ, không biết đối phương sẽ tiến công vào lúc nào và từ hướng nào. Để có thể vây hãm và lần lượt tiến công tiêu diệt từng mục tiêu một, bộ đội ta đã thành công trong việc xây dựng hệ thống trận địa tiến công và bao vây chiến dịch.
Thiếu tướng, Tiến sĩ Trần Minh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng phân tích: "Thực hiện phương pháp này, bằng những hành động vây địch. Vây chặt xung quanh định và từng cụm điểm tựa, từng khu vực đến hình thành vây chặt các cứ điểm của địch, không cho địch thoát ra ngoài. Vòng vây đó được thực hiện bằng việc các chiến sĩ trong các đơn vị chiến đấu của ta đào thành những đường hào hàng trăm km khóa chặt địch lại, hằng ngày siết chặt lại, dồn lại định đánh chắc tiến chắc từng khu vực điểm cao và sau đó là đến trận quyết chiến cuối cùng ở giai đoạn 3 là tiêu diệt toàn bộ quân địch".
Đợt 2 Chiến dịch từ 30/3/1954 đến 30/4/1954, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ lệnh cho các đại đoàn chủ lực tập trung lực lượng xây dựng trận địa tiến công và bao vây, các đường hào cơ động như những "vòi bạch tuộc" khổng lồ tiến dần đến sát từng cứ điểm địch, cùng với sự phối hợp của lực lượng pháo cao xạ khống chế bầu trời triệt đường tiếp tế, tiếp viện của địch. Bộ binh đào chiến hào vây lấn ở mặt đất, cao xạ bao vây xiết chặt vùng trời, cắt cầu hàng không.
Đại tá, cựu chiến binh Trần Liên, nguyên cán bộ tham mưu Trung đoàn Cao xạ 367 năm 1954 kể lại, thời gian này, địch phải thả dù tiếp tế 100-120 tấn hàng gồm: lương thực, thuốc men, đạn pháo, cối... mỗi ngày. Máy bay phải bay cao trên 3 nghìn mét nhưng vẫn bị cao xạ của ta bắn nên việc thả hàng của chúng không chính xác như dự tính. Phần lớn hàng tiếp tế rơi vào khu vực ta kiểm soát: "Đến đợt 2 là "vây-lấn". Bộ binh ta cứ đào hào vì lính vào nơi thì yếm hộ lực lượng này. "Vây - lấn" đến đâu thì ta dùng lực lượng pháo cao xạ để khép chặt vùng không phận. Cho nên Bác Giáp có Chỉ thị: "Nếu cắt đường tiếp tế của địch thì coi như là định sẽ thất bại". Có ngày tới 450 cái dù, thì 422 cái dù rơi vào khu vực ta. Dù ấy có lương thực, bánh mì, súng, đạn, pháo... Cái đó là quân ta thu được".
Chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài tới 56 ngày đêm, trong mọi địa hình, thời tiết. Để bộ đội ta có thể trụ vững và tiêu diệt được những lực lượng lớn hơn với một hệ thống phòng thủ kiên cố hơn là một câu hỏi lớn đặt ra cho Bộ Chỉ huy Chiến dịch và chỉ huy các đơn vị của ta ở Điện Biên Phủ.
Bởi vậy, việc phát triển công sự chiến đấu thành một hệ thống trận địa tiến công và bao vây trong Chiến dịch Điện Biên Phủ chính là sự trả lời thỏa đáng cho câu hỏi đó. Với hàng trăm km giao thông hào và chiến hào, hàng vạn công sự dã chiến cho bộ đội và hỏa lực; hàng trăm hầm cứu thương, hầm chứa vũ khí, hậu cần... và cả hầm cho chỉ huy đã bảo đảm cho việc hạn chế tổn thất do hỏa lực địch, bảo đảm cho việc cơ động lực lượng và chiến đấu của bộ đội được liên tục cả ngày lẫn đêm, trong điều kiện oanh kích và pháo kích ác liệt của địch.
Trận đánh cứ điểm 106 (đêm 1/4/1954), được coi là trận mở đầu của hình thức chiến thuật "vây, lấn, tấn, triệt, diệt". Tiếp đó là trận đánh các cứ điểm 105 và được hoàn thiện trong trận tiêu diệt quân địch ở cứ điểm 206, tạo thế và lực phát triển tiến công, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm địch.
Thiếu tướng, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự đánh giá: "Nghệ thuật quân sự trong chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao nghệ thuật quân sự Việt Nam. Một trong số đó có nghệ thuật sáng tạo đầu tiên trong chiến dịch Điện Biên Phủ như là cách đánh "vây - lấn". Đây là một trong những sáng tạo mà từ thực tiễn của chiến trường Điện Biên phủ chúng ta sáng tạo ra cách này. Rõ ràng trong thực tế đã phát huy rất hiệu quả. Ngoài ra, còn các nghệ thuật quân sự khác chúng ta cũng kế thừa trong chiến dịch trước của cuộc kháng chiến chống Pháp".
Tại lòng chảo Điện Biên Phủ, chúng ta không chấp nhận một cuộc tổng giao chiến (dự kiến kéo dài trong 2 ngày 3 đêm) mà đã kịp thời thay đổi phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc".
Với chiến thuật "vây, lấn tấn, triệt, diệt" ta đã tiến hành vây hãm dài ngày; triệt phá đường tiếp tế, xây dựng trận địa và đường cơ động cho pháo binh, đào hàng trăm km giao thông hào, bảo đảm cho bộ đội có thể tác chiến được trong mọi điều kiện. Vận dụng thành công chiến thuật "vây, lấn, tấn, triệt, diệt" cũng đã giúp tập trung được hỏa lực tiêu diệt từng cứ điểm, cụm cứ điểm, trung tâm đề kháng,... tiến tới tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Thắng lợi nêu trên bắt nguồn từ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập tự cường và tinh thần đoàn kết chiến đấu ngoan cường của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng đó còn nhờ vào sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc.
Ngay từ khi mới thành lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tích cực đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao và tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhiều lực lượng tiến bộ ở các quốc gia-dân tộc trên thế giới. Tháng 1/1950, Trung Quốc và Liên Xô lần lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Kể từ đây, cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam có một “hậu phương” to lớn, quan trọng về tinh thần và mở đầu việc tiếp nhận sự viện trợ, giúp đỡ về vật chất của bạn bè thế giới.
Trước yêu cầu giúp đỡ cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, các nhà lãnh đạo Liên Xô khẳng định: “Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam những thứ đang cần. Những thứ gì Trung Quốc chưa có, thì hãy lấy trong số hàng Liên Xô đã viện trợ cho Trung Quốc chuyển cho Việt Nam và sẽ được Liên Xô hoàn trả” (1); đồng thời, nhiều đơn vị của Quân đội nhân dân Việt Nam được đưa sang Trung Quốc học tập, huấn luyện và tiếp nhận các loại vũ khí, khí tài do Liên Xô viện trợ. Trước khi trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ mở màn, Trung đoàn pháo binh 45 trang bị pháo 105 mm cùng Trung đoàn pháo cao xạ 367 trang bị 72 khẩu pháo cao xạ 37 mm, 72 khẩu súng máy 12,7 mm do Liên Xô viện trợ đã hoàn thành các khóa huấn luyện và trở về Việt Nam tham gia chiến đấu.
Trên cơ sở đánh giá toàn diện tình hình, ngày 6/12/1953, Hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm đánh bại những cố gắng cao nhất, hình thức phòng ngự mới nhất của quân Pháp, tạo ra cục diện mới trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Ủng hộ chủ trương đó, Chính phủ Trung Quốc gấp rút gửi sang Việt Nam: “200 ô-tô, hơn 10.000 thùng dầu, hơn 3.000 khẩu súng các loại, 2.400.000 viên đạn, hơn 100 khẩu pháo các loại, hơn 60.000 viên đạn pháo và đạn hỏa tiễn, 1.700 tấn lương thực” (2). Thời điểm này, Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tích cực phối hợp cùng các tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam để khảo sát, xây dựng kế hoạch tác chiến và chuẩn bị chiến trường cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trong quá trình chuẩn bị chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định tình hình chiến trường có nhiều thay đổi, nếu thực hiện phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sẽ không bảo đảm chắc thắng. Vì vậy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã báo cáo và được Bộ Chính trị chấp thuận quyết định thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Đối với chủ trương này, Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ và đề nghị Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc gửi gấp sang Việt Nam những tài liệu tổng kết kinh nghiệm chiến đấu mới nhất ở Triều Tiên, nhất là kinh nghiệm xây dựng trận địa, chiến đấu đường hầm và cách đánh bằng chiến hào, bao vây, đánh lấn.
Giữa lúc quân và dân ta đang tích cực chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 26/2/1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô gửi điện cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, bày tỏ lập trường về Hội nghị Genève và những vấn đề khác liên quan đến Việt Nam: “…trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta cũng phải làm cho Hội nghị trở nên có lợi nhất cho nhân dân Việt Nam” (3). Tiếp đó, ngày 27/2/1954, trong cuộc hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô V.M. Molotov khẳng định, không chấp nhận sự hiện diện của các phái đoàn quốc gia liên kết trong Hội nghị Genève nếu như Việt Nam Dân chủ cộng hòa không có mặt.
Phát huy đường lối đối ngoại đúng đắn, sáng tạo, từ năm 1950 đến 1954, Việt Nam tranh thủ được sự ủng hộ của nhiều lực lượng tiến bộ trên thế giới và nhận được 32.311 tấn hàng viện trợ cùng 1.640 xe các loại (4). Trong tổng số viện trợ nêu trên, viện trợ của Liên Xô chiếm giữ một khối lượng quan trọng, gồm: 128 khẩu súng máy cao xạ 12,7 mm, 112 khẩu pháo cao xạ 37 mm (5), 1.489 xe các loại (6). Riêng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Chính phủ Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ cộng hòa 1.700 tấn gạo (bằng 6,8% tổng số gạo dùng trong chiến dịch), 36.000 viên đạn 105 mm, cùng 24 khẩu pháo; một tiểu đoàn ĐKZ 75 mm, một tiểu đoàn Kachiusa (do Liên Xô cung cấp), cùng 1.136 viên đạn (7). Nguồn viện trợ quân sự quan trọng này góp phần thu hẹp khoảng cách về hỏa lực giữa các lực lượng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và quân đội Pháp.
Vào lúc 17 giờ 5 phút ngày 13/3/1954, các đơn vị tham gia chiến dịch chính thức nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sự xuất hiện lần đầu của pháo 105 mm và cách đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn đã góp phần nâng cao hiệu suất cho trận mở màn tiến công cứ điểm Him Lam. Tiếp tục phát huy linh hoạt, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, bộ đội ta đã “đưa trận địa chiến hào vào sát khu trung tâm tập đoàn cứ điểm” (8), từng bước thắt chặt vòng vây, triệt tiếp tế, tiếp viện bằng đường không của tập đoàn cứ điểm. Trước khi đợt tiến công thứ ba bắt đầu, Tiểu đoàn 224-Tiểu đoàn hỏa tiễn phóng loạt H6 được thành lập. Cùng với sự hỗ trợ tích cực của các cố vấn Trung Quốc, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 224 nhanh chóng nắm bắt được kỹ thuật bắn và kịp thời phát huy hỏa lực, yểm trợ tích cực cho bộ binh tiến công tiêu diệt địch.
Trong lúc các đơn vị quân Pháp đang bị vây hãm tại lòng chảo Điện Biên Phủ, ngày 2/5/1954, Chính phủ Mỹ buộc phải chấp nhận lập trường kiên định của Chính phủ Liên Xô về việc Việt Nam Dân chủ cộng hòa là một bên trong Hội nghị Genève. Cộng hưởng với những thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, ngày 7/5/1954, các đơn vị tham gia chiến dịch thực hiện lệnh tổng công kích, tiêu diệt các cứ điểm cuối cùng, đánh chiếm Sở Chỉ huy địch, hoàn thành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là kết quả của đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, là thắng lợi của quá trình vận động mở rộng đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong đó, sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ. Những kinh nghiệm nêu trên tiếp tục được phát triển, vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và phát huy giá trị to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới._________________
(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.14.
(2) Ghi chép thực về Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, Nxb Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2002 (Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch và hiệu đính), tr.136.
(3) Dẫn theo: Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Liên Xô ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2018, tr.42.
(4) Số lượng hàng viện trợ đã tiếp nhận từ năm 1950 đến năm 1955, Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phông Tổng Cục hậu cần, Hồ sơ: 565, tr. 4, 165; Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp-Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 459: Tổng số hàng viện trợ quốc tế: 21.517 tấn, trị giá 136 triệu đồng nhân dân tệ (34 triệu rúp), trong đó về vũ khí trang bị kỹ thuật của Liên Xô có: 76 khẩu pháo cao xạ 37mm, 12 khẩu pháo hỏa tiễn H6, 685/715 xe ô-tô vận tải.
(5) Thống kê súng pháo nhập qua các năm 1950-1954, Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phông Tổng Cục hậu cần, Hồ sơ: 565, tr.179.
(6) Nhu cầu đặc biệt năm 1955 xin Liên Xô-Xe xin được từ năm 1951 đến nay, Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phông Cục Đối ngoại, Hồ sơ: 1, tr. 74.
(7) Phạm Mai Hùng, Sự giúp đỡ quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam (1945-1954), trong sách: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Tỉnh ủy-Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên, 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.538.
(8) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2018, tr.1.039.
(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.14.
(2) Ghi chép thực về Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, Nxb Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2002 (Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch và hiệu đính), tr.136.
(3) Dẫn theo: Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Liên Xô ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2018, tr.42.
(4) Số lượng hàng viện trợ đã tiếp nhận từ năm 1950 đến năm 1955, Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phông Tổng Cục hậu cần, Hồ sơ: 565, tr. 4, 165; Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp-Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 459: Tổng số hàng viện trợ quốc tế: 21.517 tấn, trị giá 136 triệu đồng nhân dân tệ (34 triệu rúp), trong đó về vũ khí trang bị kỹ thuật của Liên Xô có: 76 khẩu pháo cao xạ 37mm, 12 khẩu pháo hỏa tiễn H6, 685/715 xe ô-tô vận tải.
(5) Thống kê súng pháo nhập qua các năm 1950-1954, Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phông Tổng Cục hậu cần, Hồ sơ: 565, tr.179.
(6) Nhu cầu đặc biệt năm 1955 xin Liên Xô-Xe xin được từ năm 1951 đến nay, Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phông Cục Đối ngoại, Hồ sơ: 1, tr. 74.
(7) Phạm Mai Hùng, Sự giúp đỡ quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam (1945-1954), trong sách: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Tỉnh ủy-Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên, 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.538.
(8) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2018, tr.1.039.