Thuốc Erythromycin & Nghệ Nam Hà được sử dụng trong điều trị sẹo mụn. Trong bài viết này Trung Tâm Thuốc Central Pharmacy xin gửi đến bạn đọc những thông tin chi tiết về thuốc Erythromycin & Nghệ Nam Hà.
Lưu ý khi sử dụng và bảo quản
Lưu ý khi sử dụng thuốc Erythromycin Nghệ 10g cần kiểm tra hạn sử dụng và đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi sử dụng.
Chú ý khi bôi tránh để rơi thuốc vào mắt, trong trường hợp kem rây vào mắt cần rửa kỹ bằng nước sạch, cần thiết nên đến các cơ sở y tế để có hướng xử trí phù hợp.
Nên sử dụng thuốc theo liệu trình khoảng 1 đến 2 tháng để tình trạng mụn được cải thiện hoàn toàn và tránh tái phát.
Kem nghệ Nam Hà có phải kem trộn không? Thuốc Erythromycin và Nghệ thuộc công ty Cổ phần Dược phẩm Nam Hà, với chiết xuất hoàn từ tự nhiên, không chứa thành phần corticoid rất an toàn và hiệu quả cho da.
Thuốc Erythromycin & Nghệ Nam Hà mua ở đâu?
Thuốc Erythromycin & Nghệ Nam Hà mua ở đâu chính hãng, uy tín nhất? Bạn có thể mua sản phẩm này trực tiếp ở Nhà thuốc Trung Tâm Thuốc Central Pharmacy tại địa chỉ: Ngõ 116, Nhân Hòa, Thanh Xuân, Hà Nội. Hoặc hãy liên hệ với các dược sĩ nhà thuốc qua số hotline/ nhắn tin trên website để được tư vấn sử dụng thuốc đúng cách.
Thuốc Erythromycin & Nghệ Nam Hà giá bao nhiêu?
Thuốc Erythromycin & Nghệ Nam Hà hiện nay đang được bán ở nhà thuốc online Trung Tâm Thuốc Central Pharmacy, giá sản phẩm có thể đã được cập nhật ở phần đầu trang. Nếu bạn muốn biết thêm chi tiết về giá sản phẩm cùng các chương trình ưu đãi, bạn có thể liên hệ với nhân viên nhà thuốc qua số hotline 1900 888 633 để được tư vấn nhanh nhất.
Cách dùng thuốc Erythromycin & Nghệ Nam Hà hiệu quả
Thuốc Erythromycin Nghệ 10g được bào chế dạng kem bôi da nên bệnh nhân sử dụng thuốc bằng đường bôi. Bệnh nhân cần rửa mặt trước khi bôi thuốc bằng nước sạch.
Vui lòng không sử dụng thuốc Erythromycin Nghệ 10g cho các trường hợp:
==> Quý bạn đọc có thể tham khảo thêm thực phẩm chức năng có cùng công dụng: Kem trị mụn Biona Nghệ: tác dụng, đối tượng sử dụng, giá bán
Một số trường hợp sau khi bôi thuốc bị khô da, da vùng bôi thuốc bị nóng.
Khi gặp triệu chứng được coi là tác dụng phụ bệnh nhân cần ngưng sử dụng thuốc và đến gặp bác sĩ hoặc dược sĩ tư vấn để có hướng xử trí phù hợp.
Trong quá trình sử dụng thuốc, có thể xảy ra hiện tượng cạnh tranh hoặc tương tác giữa thuốc Erythromycin Nghệ 10g với thức ăn hoặc các thuốc, thực phẩm chức năng khác như:[1]
Erythromycin và Nghệ Nam Hà có tốt không?
Bạn Vân (20 tuổi) chia sẻ: " Vô tình một lần mình có thấy một bài viết Kem Nghệ Nam Hà webtretho, mình theo dõi trang web này đã lâu, thấy bạn đó chia sẻ quá trình bạn điều trị mụn tại nhà bằng kem nghệ Nam Hà, thấy thành phần chiết xuất từ nghệ có kết hợp với Erythromycin là kháng sinh nên mình tin tưởng sử dụng. Và mình đã không tin nhầm, huhu sử dụng đem lại kết quả tốt, da mình đỡ mụn nhiều lắm, mình sẽ chăm chỉ sử dụng."
Vợ chồng chị Loan kết hôn hai năm không có con, điều trị hiếm muộn tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM (IVF Tâm Anh TP HCM). Bác sĩ Lê Xuân Nguyên cho biết chỉ số dự trữ buồng trứng (AMH) của chị cực thấp, chỉ còn 0.5 ng/ml (chỉ số AMH trung bình ở phụ nữ dưới 38 tuổi là 2-6 ng/ml), siêu âm đầu chu kỳ kinh nguyệt ghi nhận mỗi bên buồng trứng chỉ vài noãn.
Bác sĩ Nguyên áp dụng phác đồ gom trứng tích lũy nhiều chu kỳ cho chị Loan, thu được 9 nang trứng sau hai lần kích thích buồng trứng và chọc hút. Tuy nhiên chất lượng trứng kém khiến hầu hết phôi ngừng phát triển ở giai đoạn ngày một đến ngày 3. Chỉ một phôi phát triển đến ngày 6 nhưng chất lượng trung bình.
Bác sĩ Nguyên thuyết phục chị trữ đông phôi này để tiếp tục kích thích buồng trứng thêm một chu kỳ. Cách này giúp chị Loan thêm cơ hội có phôi chất lượng tốt hơn để chuyển vào tử cung, tối ưu khả năng đậu thai. Trữ đông phôi cũng bảo tồn khả năng có con trong tương lai. Lần này, chị Loan có 7 nang trứng, song chất lượng vẫn không cao khiến phôi ngừng phát triển ở giai đoạn sớm, chỉ nuôi được thêm một phôi ngày 6 chất lượng trung bình.
Bác sĩ Lê Xuân Nguyên tư vấn phác đồ điều trị cho người bệnh. Ảnh minh họa: Hoài Thương
Theo bác sĩ Nguyên, kích thước của trứng lớn gấp 10 lần tinh trùng. Trong quá trình thụ tinh và nuôi cấy phôi, ở những giai đoạn đầu tiên, sự phát triển của phôi thai phụ thuộc phần lớn vào trứng. Trường hợp suy buồng trứng như chị Loan, hầu hết trứng đều suy giảm chất lượng, hình thái khiếm khuyết, móp méo khiến phôi thai không đủ điều kiện để tiếp tục phát triển, hoặc phát triển chậm, chất lượng phôi trung bình.
Tỷ lệ đậu thai khi chuyển phôi ngày 6 chất lượng trung bình chỉ dao động khoảng 30%, song vẫn là cơ hội để chị Loan có con của chính mình mà không phải xin trứng. Giữa tháng 9, chị được bác sĩ Nguyên chuyển cùng lúc hai phôi vào lòng tử cung gồm phôi của chu kỳ trước sau khi rã đông và phôi tươi của chu kỳ sau. Thông thường, tại IVF Tâm Anh, người bệnh thường được chuyển mỗi lần một phôi, tránh nguy cơ đa thai gây nhiều biến chứng. Tuy nhiên, trường hợp này phôi ngày 6 chất lượng trung bình, bác sĩ quyết định chuyển cùng lúc hai phôi kết hợp chuẩn bị nội mạc tử cung tối ưu để tăng tỷ lệ thành công. Chị Loan đậu song thai sau 10 ngày chuyển phôi, hiện thai 14 tuần, mẹ con khỏe mạnh.
Suy buồng trứng sớm là tình trạng chức năng của buồng trứng ngừng hoạt động và sản xuất trứng trước tuổi 40. Các dấu hiệu có thể là rối loạn kinh nguyệt, giảm ham muốn tình dục, thường xuyên mất ngủ, gia tăng căng thẳng, lo âu... Một số trường hợp các triệu chứng không rõ ràng, diễn tiến âm thầm, chỉ phát hiện sau nhiều năm kết hôn không có thai, xét nghiệm chỉ số dự trữ buồng trứng thấp. Không ít trường hợp phát hiện trễ, dự trữ buồng trứng hoàn toàn cạn kiệt dẫn đến nguy cơ phải xin trứng để thụ tinh ống nghiệm hoặc xin con nuôi.
Bác sĩ Nguyên khuyến cáo phụ nữ có các dấu hiệu trên nên đến Trung tâm Hỗ trợ sinh sản để khám, điều trị sớm, tăng cơ hội thu được nhiều trứng, nuôi cấy được nhiều phôi trước khi dự trữ buồng trứng cạn kiệt hoàn toàn. Phụ nữ chưa kết hôn, nếu được chẩn đoán suy buồng trứng sớm, nên cân nhắc trữ đông trứng bảo tồn khả năng sinh sản trong tương lai.
*Tên bệnh nhân đã được thay đổi
Các nhóm thuốc lợi tiểu để điều trị tăng huyết áp gồm (Xem bảng: Thuốc lợi tiểu đường uống điều trị tăng huyết áp)
Thuốc lợi tiểu làm giảm nhẹ thể tích huyết tương và sức cản mạch, có thể thông qua việc đưa Natri từ trong tế bào ra ngoài tế bào.
Thuốc lợi tiểu quai chỉ được sử dụng để điều trị tăng huyết áp ở những bệnh nhân có GFR ước tính < 30 mL/phút; những thuốc lợi tiểu này được dùng ít nhất hai lần mỗi ngày (ngoại trừ torsemide có thể dùng một lần mỗi ngày).
Mặc dù các thuốc lợi tiểu giữ kali không gây hạ kali máu, tăng axit uric máu, hoặc tăng đường huyết, chúng không hiệu quả như các thuốc lợi tiểu thiazid trong việc kiểm soát tăng huyết áp và do đó không được sử dụng để điều trị khởi đầu. Không cần thuốc lợi tiểu giữ kali hoặc bổ sung kali khi sử dụng thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE) hoặc thuốc ức chế thụ thể angiotensin II vì những thuốc này làm tăng kali huyết thanh.
Thuốc lợi tiểu loại thiazide (thuốc lợi tiểu thiazide và thuốc lợi tiểu giống thiazide) được sử dụng phổ biến nhất. Các loại thuốc phổ biến trong nhóm này có lợi về tỷ lệ tử vong bao gồm chlorthalidone và indapamide. Mặc dù thuốc lợi tiểu thiazide trước đây được cho là không hiệu quả ở những bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính giai đoạn 4, nhưng chlorthalidone đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc cải thiện huyết áp ở những bệnh nhân có tốc độ lọc cầu thận < 30 mL/phút (1). Ngoài các tác dụng hạ huyết áp khác, thuốc lợi tiểu thiazide còn gây giãn mạch ở mức độ nhỏ miễn là thể tích nội mạch ở mức bình thường. Thuốc lợi tiểu giống thiazide (tức là chlorthalidone, indapamide) được ưu tiên hơn hydrochlorothiazide vì hoạt lực cao hơn (2) và thời gian tác dụng dài hơn. Thuốc lợi tiểu loại thiazide có thể làm tăng nhẹ cholesterol trong huyết thanh (chủ yếu là cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp) và cũng làm tăng nồng độ triglyceride, mặc dù những tác dụng này có thể không kéo dài > 1 năm (3). Hơn nữa, chỉ một số ít bệnh nhân có tăng lipid máu. Lipid máu tăng rõ trong vòng 4 tuần điều trị và có thể được cải thiện bởi một chế độ ăn ít chất béo. Tác dụng phụ làm tăng nhẹ lipid máu không làm cản trở việc sử dụng lợi tiểu ở bệnh nhân bị rối loạn lipid máu.
Tất cả các thuốc lợi tiểu ngoại trừ thuốc lợi tiểu ở ống lượn xa giữ kali (ví dụ: spironolactone) đều gây mất kali đáng kể, do đó kali trong huyết thanh được đo hàng tháng cho đến khi có nồng độ ổn định. Trừ khi kali huyết thanh bình thường, sự đóng các kênh kali trên thành động mạch và sự co thắt mạch máu gây khó khăn cho việc đạt được huyết áp mục tiêu. Bệnh nhân có kali máu < 3,5 mEq/L (< 3,5 mmol/L) cần được cho bổ sung kali. Việc bổ sung có thể được tiếp tục lâu dài với liều thấp hơn hoặc có thể thêm thuốc lợi tiểu giữ kali (ví dụ: spironolactone, triamterene, amiloride). Bổ sung kali hoặc bổ sung thuốc lợi tiểu giữ kali cũng được khuyến nghị cho bất kỳ bệnh nhân nào đang dùng digoxin, có rối loạn ở tim, có điện tâm đồ bất thường, có nhịp lạc chỗ hoặc loạn nhịp, hoặc phát sinh nhịp lạc chỗ hoặc loạn nhịp khi dùng thuốc lợi tiểu.
Ở hầu hết bệnh nhân đái tháo đường, thuốc lợi tiểu thiazid không ảnh hưởng đến việc kiểm soát bệnh. Ít gặp hơn, thuốc lợi tiểu thúc đẩy hoặc làm trầm trọng thêm bệnh tiểu đường loại 2 ở bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa.
Yếu tố di truyền có thể giải thích cho một vài trường hợp bị bệnh gout do tăng axit uric máu do dùng thuốc lợi tiểu. Tăng axit uric máu do dùng thuốc lợi tiểu mà không gây bệnh gout không cần phải điều trị hoặc ngưng dùng thuốc lợi tiểu.
Thuốc lợi tiểu có thể làm tăng nhẹ tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân có tiền sử suy tim nhưng không bị sung huyết phổi, đặc biệt là ở những người đang dùng thuốc ức chế ACE hoặc thuốc ức chế thụ thể angiotensin II và những người không uống ít nhất 1400 mL (48 oz) đồ lỏng hàng ngày. Tỷ lệ tử vong tăng lên có thể liên quan đến hạ natri máu và tụt huyết áp do thuốc lợi tiểu.
1. Agarwal R, Sinha AD, Tu W: Chlorthalidone for hypertension in Advanced CKD. Reply. N Engl J Med 386(14):1384, 2022.
2. Roush GC, Ernst ME, Kostis JB, Tandon S, Sica DA. Head-to-head comparisons of hydrochlorothiazide with indapamide and chlorthalidone: antihypertensive and metabolic effects. Hypertension 65(5):1041-1046, 2015 doi:10.1161/HYPERTENSIONAHA.114.05021
3. Ott SM, LaCroix AZ, Ichikawa LE, Scholes D, Barlow WE. Effect of low-dose thiazide diuretics on plasma lipids: results from a double-blind, randomized clinical trial in older men and women. J Am Geriatr Soc 51(3):340-347, 2003 doi:10.1046/j.1532-5415.2003.51107.x
Đơn vị Hóa sinh – Trung tâm Xét Nghiệm – Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ hiện nay đã thực hiện kỹ thuật định lượng HE4 dựa trên công nghệ điện hóa phát quang trên hệ thống máy miễn dịch điện hóa phát quang ( Cobas 6000, Cobas 8000…), mang lại hiệu quả cao trong việc chần đoán nguy cơ Ung thư buồng trứng (UTBT).
Đơn vị Hóa sinh – Trung tâm Xét Nghiệm với đội ngũ y bác sĩ giỏi, được đào tạo chuyên môn cao luôn không ngừng phấn đấu, tập trung phát triển nhiều kỹ thuật mới, chuyên sâu, khẳng định bước tiến mới trong y học hiện đại. Xét nghiệm Định lượng HE4 mà Đơn vị Hóa sinh mới triển khai là một bước tiến mới trong chẩn đoán nguy cơ UTBT, theo dõi và đánh giá hiệu quả điều trị cũng như chẩn đoán sớm các trường hợp tái phát sau điều trị ( phẫu thuật, hóa trị liệu ).
UTBT là một trong năm loại ung thư thường gặp nhất ở nữ giới, chiếm khoảng 30% các bệnh ung thư phụ khoa. Có đến 55% ca tử vong do ung thư phụ khoa là UTBT. Nếu được phát hiện, chẩn đoán, và điều trị sớm thì điều trị UTBT sẽ có kết quả tốt. Tuy nhiên, phần nhiều các trường hợp được chẩn đoán khi ung thư đã ở giai đoạn muộn, nguyên nhân là do UTBT thường không có dấu hiệu lâm sàng rõ ràng nên người bệnh thường đến bệnh viện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Để chẩn đoán UTBT, bên cạnh thăm khám lâm sàng và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm CA125 được dùng khá phổ biến. Tuy nhiên, xét nghiệm CA125 còn có nhiều hạn chế như CA125 chỉ tăng ở khoảng 80% UTBT thể biểu mô (20% trường hợp còn lại không phát hiện được bằng CA125), và dưới 50% UTBT ở giai đoạn sớm như giai đoạn I và giai đoạn II (50% còn lại xét nghiệm CA125 không phát hiện), trong khi CA125 lại tăng trong các bệnh lý phụ khoa lành tính.
Xét nghiệm HE4 (Human epididymal protein 4: protein mào tinh hoàn người 4) được xác định đầu tiên trong biểu mô của mào tinh hoàn ngoại biên. Nó được bài tiết với nồng độ cao trong huyết thanh của bệnh nhân UTBT. Là một dấu ấn ung thư đơn độc, HE4 có độ nhạy cao nhất đối với việc phát hiện UTBT, đặc biệt trong giai đoạn sớm không có triệu chứng. Việc sử dụng kết hợp CA 125 và HE4 trong chẩn đoán UTBT cho độ nhạy cao nhất ( 75% – 80% ) và độ đặc hiệu 95%. Ngoài ra, nồng độ HE4 còn có mối tương quan với tình trạng đáp ứng điều trị và tình trạng tái phát bệnh ở người bệnh UTBT. Do đó HE4 còn là một chất chỉ điểm ung thư sớm và rất quan trọng trong chẩn đoán tái phát UTBT.
Hệ thống xét nghiệm tự động của Đơn vị Hóa sinh – TT Xét Nghiệm
Xét nghiệm HE4 có thể được chỉ định một mình hoặc kết hợp với CA 125. Việc kết hợp xét nghiệm HE4 và CA 125, cùng với thuật toán ROMA (Risk of Ovarian Malignancy Algorithm) đánh giá nguy cơ UTBT, làm tăng độ nhạy của chẩn đoán UTBT, ít bỏ sót các trường hợp tái phát UTBT, giúp chẩn đoán phân biệt giữa khối u lành tính hoặc ác tính vùng chậu hông chính xác hơn việc sử dụng mỗi xét nghiệm đơn lẻ, làm tăng độ nhạy của chẩn đoán ung thư buồng trứng ở phụ nữ có khối u vùng chậu hông.
Kỹ thuật viên thực hiện thao tác trên máy xét nghiệm
Hiện nay việc sử dụng xét nghiệm HE4 và thuật toán ROMA đã mang lại hiệu quả cao trong việc dự báo sớm nguy cơ UTBT. Giúp người bệnh có thể phát hiện, chẩn đoán sớm. Đem lại hiệu quả điều trị cao.